Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Acid fusidic là một kháng sinh, hoạt động bằng cách ngăn chặn vi khuẩn phát triển. Thuốc được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn, chẳng hạn như nhiễm trùng da bao gồm viêm mô tế bào và bệnh chốc lở, và nhiễm trùng mắt bao gồm viêm kết mạc (mắt đỏ, ngứa). Các tác dụng phụ của thuốc ít gặp như rối loạn tiêu hóa nhẹ, vàng da, chức năng gan bất thường… Tuy nhiên bạn vẫn cần chú ý những tác dụng phụ này khi đang sử dụng thuốc.
Acid fusidic là một loại kháng sinh steroid được sản xuất từ nấm Fusidium coccineum và được phát triển bởi công ty dược phẩm Leo Pharma ở Đan Mạch từ những năm 1960. Acid fusidic được sử dụng để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn do đó thuốc sẽ không có tác dụng đối với cảm lạnh, cúm hoặc các bệnh nhiễm vi-rút khác.
Acid fusidic và Natri fusidate có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với liệu pháp toàn thân trong điều trị nhiễm trùng da nguyên phát và thứ phát do các chủng Staphylococcus aureus, Streptococcus và Corynebacterium minutissimum nhạy cảm gây ra.
Acid fusidic chỉ được bán theo toa của bác sĩ. Thuốc có nhiều dạng khác nhau như kem, thuốc mỡ và thuốc nhỏ mắt. Thuốc có thể được kết hợp với một steroid trong một số loại kem. Ngoài ra, thuốc cũng có thể được sử dụng bằng đường tiêm, hoặc dạng viên. Nhưng những hình thức này thường chỉ được chỉ định trong bệnh viện.
Điều chế Acid fusidic dạng kem
Natri fusidate là nguyên liệu thô ban đầu để điều chế ra Fusidic, Natri fusidate được chuyển thành Acid fusidic trong môi trường không có oxy (được tạo ra bằng cách sử dụng khí trơ).
Điều chế Natri fusidat
Hòa tan Acid fusidic trong dung dịch cồn nồng độ thấp để thu được dung dịch Natri fusidat.
Cho dung dịch Etyl axetat vào dung dịch Natri fusidat để kết tinh Natri fusidat và thu thập chất rắn.
Làm khô chất rắn, nhờ đó thu được tinh thể Natri fusidat.
Acid fusidic là kháng sinh có cấu trúc steroid, nhóm fusidanin, có tác dụng kìm khuẩn và diệt khuẩn, chủ yếu trên vi khuẩn Gram dương.
Cơ chế hoạt động của acid fusidic là ức chế quá trình tổng hợp protein trong vi khuẩn bằng cách ổn định phức hợp yếu tố kéo dài G (EF-G), dẫn đến việc cắt ngắn độ giãn dài của peptide. Nó tác động vào một yếu tố cần thiết cho sự chuyển đoạn của các đơn vị phụ peptid và kéo dài chuỗi peptide. Mặc dù acid fusidic cũng có khả năng ức chế tổng hợp protein trong tế bào động vật có vú, nhưng nó không thâm nhập vào tế bào chủ một cách hiệu quả. Do đó, thuốc này có tác dụng chọn lọc chống lại các chủng vi khuẩn nhạy cảm.
Tác dụng trên da: Nhiều nghiên cứu về hiệu quả lâm sàng của Acid fusidic trong bệnh nhiễm trùng da và mô mềm đã cho thấy thuốc có hiệu quả và dung nạp tốt, ít tác dụng phụ, đặc biệt nhiễm trùng do Staphylococcus aureus và Streptococcus pyogenes.
Acid fusidic dạng kem hoặc thuốc mỡ giúp điều trị bệnh chốc lở; Acid fusidic với 1% hydrocortisone hoặc 0,1% betamethasone cho thấy kết quả tốt trong bệnh chàm nhiễm trùng. Các nghiên cứu về Acid fusidic bôi tại chỗ cũng đã được báo cáo ở các tình trạng bệnh cụ thể như mụn trứng cá, ban đỏ và áp xe với kết quả tốt.
Tác dụng trên tim mạch: Hoạt tính in vitro của Acid fusidic chống lại tụ cầu vàng đã được xác nhận trong các nghiên cứu lâm sàng chứng minh rằng khi kết hợp với các kháng sinh khác, đặc biệt là beta-lactam, có hiệu quả trong nhiễm trùng huyết không do MRSA (Tụ cầu vàng kháng methicillin - Methicillin - Resistant Staphylococcus aureus) và giảm đáng kể nguy cơ tái phát sau khi ngừng điều trị.
Tác dụng trên xương khớp: Acid fusidic, thường được dùng đồng thời với một loại kháng sinh khác, đã được chứng minh là có hiệu quả trong nhiều bệnh nhiễm trùng do tụ cầu, bao gồm viêm tủy xương cấp tính và viêm khớp nhiễm trùng.
Tác dụng trên mắt: Acid fusidic thường được chỉ định điều trị viêm kết mạc do vi khuẩn và/hoặc viêm kết mạc bờ mi, đặc biệt là do Staphylococcus gây ra, nhưng không phải do Streptococcus hoặc Haemophilus sp. Ngoài ra thuốc cũng có thể được sử dụng để kiểm soát trầy xước giác mạc và kết mạc và chấn thương do dị vật hoặc một số trường hợp viêm bờ mi mãn tính.
Acid fusidic có thể được sử dụng theo đường uống, dùng ngoài (dưới dạng Acid fusidic hoặc Natri fusidate), hoặc thông qua đường tĩnh mạch (dưới dạng Natri fusidate).
Đường uống
Liều uống thông thường cho người lớn là Natri fusidat 500 mg, mỗi 8 giờ một lần. Bác sĩ có thể tăng gấp đôi liều nếu bạn bị nhiễm khuẩn nặng.
Trẻ em thường dùng đường uống hỗn dịch Acid fusidic:
Đường tĩnh mạch
Trong trường hợp nhiễm khuẩn nặng, bạn có thể được chỉ định Natri fusidat truyền tĩnh mạch chậm. Đối với người lớn cân nặng trên 50 kg liều 500 mg/lần, 3 lần/ngày. Đối với trẻ em và người lớn cân nặng dưới 50 kg, liều 6 - 7 mg/kg/lần, 3 lần/ngày.
Đường dùng ngoài
Kem và mỡ bôi ngoài da nồng độ 2%: Bôi một lớp mỏng lên vùng da bị nhiễm khuẩn sau khi đã rửa sạch, sử dụng 3 - 4 lần mỗi ngày. Nếu cần, có thể băng lại vùng bị nhiễm. Tránh sử dụng thuốc với lớp dày. Đợt điều trị không nên kéo dài quá 10 ngày để tránh nguy cơ phát triển kháng thuốc.
Gel nhỏ mắt 1%: Sử dụng gel nhỏ mắt bằng cách nhỏ 2 lần mỗi ngày, vào buổi sáng và buổi tối. Mỗi lần sử dụng nhỏ một giọt gel vào túi kết mạc dưới.
Tác dụng phụ thường gặp nhất của thuốc nhỏ mắt Acid fusidic là mắt khô, đau, ngứa hoặc châm chích. Bạn cũng có thể bị mờ mắt. Việc gặp phải tác dụng phụ khi dùng kem hoặc thuốc mỡ chứa Acid fusidic là điều bất thường, nhưng một số người có thể bị kích ứng da. Mặc dù tác dụng phụ của thuốc dùng ngoài được báo cáo là hiếm do đó nếu có những tác dụng phụ này hãy ngưng sử dụng thuốc ngay lập tức và đến khám bác sĩ.
Acid fusidic là một loại kháng sinh do đó không được sử dụng trong đời sống chúng ta nếu như bạn không thuộc chỉ định sử dụng của thuốc.
Các lưu ý khi sử dụng Acid fusidic: