Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Nhục đầu khấu có tên khoa học là Myristica fragrans Houtt. thuộc họ Myristicaceae (Nhục đậu khấu). Nhục đầu khấu có công dụng chữa lỵ, tiêu chảy, đau dạ dày, đầy hơi, buồn nôn, suy mòn, sốt rét, thấp khớp, đau thần kinh tọa, bệnh phong giai đoạn đầu (Hạt tán bột). Tuy nhiên cần lưu ý nhục đầu khấu dùng liều cao dễ bị ngộ độc.
Tên Tiếng Việt: Nhục đầu khấu (Vỏ).
Tên khác: Nhục quả; Ngọc quả.
Tên khoa học: Myristica fragrans Houtt. thuộc họ Myristicaceae (Nhục đậu khấu).
Cây Nhục đậu khấu thân gỗ, độ cao khoảng 8 – 10 mét, cây nhỏ, cành mảnh, toàn thân cây nhẵn. Lá cây mọc so le, phiến lá mác, hình elip, đỉnh lá ngắn, gốc lá rộng, mép lá nguyên, có 8 – 10 gân lá đối xứng 2 bên. Cuống lá dài khoảng 7 – 10 mm.
Hoa thường có màu vàng trắng, mọc thành xim ở các kẽ lá. Cụm hoa dài 1 – 3 cm, nhẵn. Các thùy hoa có hình bầu dục hoặc hình tam giác, bên ngoài màu nâu.
Quả hạch, hình cầu hoặc hình quả lê, đường kính khoảng 5 – 8 cm. Quả thường mọc đơn, có cuống ngắn hoặc cuống dài quả buông thõng xuống. Khi chín, đáy quả sẽ nở ra theo chiều dọc thành 2 mảnh lộ ra phần hạt bên trong. Hạt Nhục đậu khấu có vỏ dày và được bao bọc bởi một lớp áo màu hồng.
Nhục đậu khấu có nguồn gốc ở vùng đảo Molucca ở Thái Bình Dương, được nhập trồng vào đất liền ở khắp vùng nhiệt đới Nam Á và Đông – Nam Á. Ở Việt Nam cây chủ yếu được trồng ở các tỉnh phía nam.
Nhục đậu khấu là cây nhiệt đới, thích nghi cao với điều kiện khí hậu nóng và ẩm, lượng mưa hàng năm tư 1500 – 3000mm. Cây sinh trưởng tốt ở vùng thấp, không thích hợp với vùng núi trên 750m, rụng lá mua khô, thụ phấn nhờ gió hoặc côn trùng. Khi quả chín lấy hạt tươi gieo ngay, đạt tỷ lệ nảy mầm từ 92 – 98%. Sau 2 tháng tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 7%. Cây con ở vườn ươm sau một năm mới đem trồng. Trong gieo trồng ngẫu nhiên từ hạt, bao giờ số cây mang hoa đực cũng nhiều gấp bội cây hoa cái. Nhục đậu khấu cho thời gian thu hoạch kéo dài đến 70 – 80 năm (The Wealth of India, vol. VI: 473 – 475. 1962).
Cây Nhục đậu khấu sau khi trồng được 7 năm thì có thể thu hoạch liên tục trong 60 – 70 năm. Vào năm 25 tuổi, cây cho thu hoạch ổn định và phong phú nhất. Mỗi năm có thể thu hoạch 2 lần vào tháng 4 – 6 và tháng 11 – 12.
Sau khi thu hái, mang về tách riêng phần vỏ quả giữ lại phần áo quả (Đông y gọi là Nhục y quả hoặc Ngọc quả hoa). Sau đó ngâm phần dược liệu với muối rồi sấy hoặc phơi khô.
Ngoài ra, có thể hong dược liệu với lửa nhỏ cho đến khi lắc nghe có tiếng lóc cóc là được. Việc sấy và làm khô hạt thường kéo dài đến 2 tháng. Sau đó có thể tách phần vỏ quả để lấy phần nhân Nhục đậu khấu, phân loại theo kích thước hạt, ngâm qua nước vôi để ngăn ngừa côn trùng và nấm mốc.
Các bộ phận của Nhục đậu khấu được ứng dụng làm dược liệu bao gồm:
Nhục đầu khấu y hay Ngọc quả hoa (vỏ giả của hạt): Chứa 8% tinh dầu, các axit béo tương tự như nhân hạt, chất nhựa, Pectic. Tinh dầu không màu hay đỏ nhạt, rất lỏng, quay phải, mùi vị nồng giống như nhục đầu khấu, cất theo ở nhiệt độ 155 đến 183 độ C.
Nhục đậu khấu có vị cay, đắng, hơi chát, mùi thơm, tính ấm, có độc, vào 3 kinh tì, vị và đại tràng, có tác dụng ôn tì, thu sáp, chỉ nôn, chỉ tả, lỵ, tiêu thực. Nhục đầu khấu có tác dụng kích thích tiêu hóa, dùng làm thuốc trong các trường hợp kén ăn, sốt rét.
Tăng cường hệ thống miễn dịch
Nhục ngọc quả chứa nhiều vitamin và khoáng chất có thể bảo vệ cơ thể khỏi các gốc tự do và tăng sức đề kháng.
Hỗ trợ hoạt động của hệ thống tiêu hóa
Tăng cường bài tiết dịch dạ dày giúp quá trình tiêu hóa diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, lượng chất xơ trong nhục ngọc quả cũng hỗ trợ ngăn ngừa táo bón hiệu quả.
Hỗ trợ quá trình đào thải độc tố
Hàm lượng Magie và chống chống oxy hóa cao giúp Nhục ngọc quả hạn chế sự phát triển của các gốc tự do và kích hoạt các enzym hỗ trợ đào thải độc tố trong cơ thể.
Dùng dưới dạng bột hay dạng thuốc viên. Ngày uống 0,25 đến 0,5 g. Có khi dùng 2 đến 4 g nếu bị tiêu chảy nặng. Nhưng dùng liều quá cao có thể gây độc. Áo hạt là thuốc bổ máu với liều dùng gấp đôi.
Chữa kém ăn, ăn không tiêu
Nhục đậu khấu 0,50g, nhục quế 0,50g, đinh hương 0,20g. Tất cả tán thành bột, trộn đều với lactose, chia làm 3 gói, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 gói.
Chữa tỳ vị hư hàn, đau bụng, đầy hơi, nôn mửa, tiêu chảy kéo dài
Nhục đậu khấu nướng qua 0,5g, nhục quế 0,5g, mài với nước hay rượu uống. Ngày 2-3 lần.
Có thể dùng dạng thuốc bột gồm nhục đậu khấu 80g, quế 100g, đinh hương 40g, sa nhân 30g. Mỗi vị tán thành bột, trộn tất cả với 250g calci carbonat và 500g đường. Ngày uống 1 – 4g.
Hoặc dùng bài thuốc gồm nhục đậu khấu 40g, vỏ lựu 40g. Lấy cám gạo làm thành bánh, bao bọc nhục đậu khấu ở giữa, rồi đem nướng đến khi cám cháy xém. Lấy hạt nhục đậu khấu gói vào giấy bản, đập cho dầu chảy ra thấm vào giấy bản, vỏ quả lựu thái nhỏ sao vàng. Hai thứ tán nhỏ, rây thành bột mịn, luyện với hồ làm viên bằng hạt đỗ đen. Ngày uống 3 lần vào lúc đói, mỗi lần 0,5 – l,0g với nước ấm hoặc cháo loãng.
Thuốc giảm đau và chữa kiết lỵ, tiêu chảy cấp và mạn tính (Ấn Độ)
Nhục đậu khấu, quả chà là và nhựa thuốc phiện lượng bằng nhau, trộn với dịch ép của lá trầu không làm thành viên tròn, nặng 0,33g. Mỗi lần uống 1 viên, ngày 3 lần.
Chữa hen, đau bụng, đau dây thần kinh, rong kinh, đau kinh, ho do co thắt, đau lưng (Ấn Độ)
Bột kép chế từ nhục đậu khấu, ngọn cây gai mèo, long não, bạch đậu khấu, đinh hương, bạch hòa xà lượng bằng nhau. Liều dùng mỗi lần 0,75 – 1 50g ngày 2 lần, uống với mật ong.
Một số lưu ý bạn cần chú ý khi sử dụng Nhục đầu khấu (vỏ):
Dùng nhiều hơn 7.5 g bột Đậu khấu mỗi ngày có thể gây chóng mặt, mất tiếng hoặc thay đổi giọng nói, thần trí không rõ ràng và có nguy cơ tử vong cao.
Không dùng nhục đậu khấu cho người bệnh lỵ và tiêu chảy do thấp nhiệt.
Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam_Đỗ Tất Lợi.
Tra cứu dược liệu: https://tracuuduoclieu.vn/nhuc-dau-khau.html