Với hơn 8 năm kinh nghiệm, trong đó có 5 năm làm việc trong lĩnh vực Nội khoa và 3 năm chuyên về tiêm chủng, bác sĩ đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩHoàng Thị Lệ
Với hơn 8 năm kinh nghiệm, trong đó có 5 năm làm việc trong lĩnh vực Nội khoa và 3 năm chuyên về tiêm chủng, bác sĩ đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Ung thư phế quản (Bronchial Carcinoid) là loại ung thư hiếm gặp hình thành trong các phế quản hoặc khí quản và các tuyến nước bọt, chiếm khoảng 1 đến 2% các ca ung thư phổi ở người lớn. Ung thư phế quản thường phát triển chậm và có thể điều trị được.
Phế quản có chức năng lọc và dẫn khí, ngoài ra tuyến trong phế quản tiết ra chất nhầy. Hoạt động của phế quản đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch và tiêu diệt các vi sinh vật gây bệnh.
Ung thư phế quản là tổn thương ác tính xuất phát từ biểu mô niêm mạc, khí phế quản, tiểu phế quản tận, phế nang và các tuyến của phế quản.
Các tế bào ung thư phế quản ban đầu chỉ khu trú ngay tại nơi bị tổn thương tại phế quản làm cho vùng phế quản bị ung thư không thực hiện được đầy đủ chức năng vận chuyển không khí. Khi các tế bào ung thư tiếp tục sản sinh sẽ tạo thành khối u chèn ép và gây rối loạn chức năng vùng phế quản lân cận, tiếp theo sau đó tế bào ung thư đi theo mạch máu và mạch bạch huyết đến các nơi xa hơn nữa trong cơ thể, lúc này gọi là ung thư di căn.
Tế bào ung thư phế quản có thể di căn vào não, xương, gan, thượng thận, da…làm cho các cơ quan này bị rối loạn chức năng. Hậu quả là cơ thể bị suy kiệt, giảm chức năng và cuối cùng là tử vong.
Ung thư phế quản được chia thành 3 nhóm:
Ung thư biểu mô dạng nhầy bì: Xảy ra ở các tuyến nước bọt, ảnh hưởng đến các tuyến mang tai ở phía trước của tai.
Ung thư biểu mô dạng nang tuyến: Hình thành ở các tuyến nước bọt trong miệng và họng. Bệnh ung thư biểu mô dạng nang tuyến có thể ảnh hưởng đến khí quản và tuyến lệ, tuyến mồ hôi, tử cung, âm hộ hoặc vú của người phụ nữ.
Các khối u carcinoid: Ảnh hưởng đến các tế bào sản xuất hormone và các tế bào thần kinh. Các khối u carcinoid này có thể hình thành trong phổi hoặc trong dạ dày và ruột.
Các khối u carcinoid có thể không phải là ung thư (lành tính) hoặc ung thư (ác tính) đôi khi tạo ra quá nhiều chất giống như hormone (như serotonin), dẫn đến hội chứng carcinoid.
Ung thư phế quản làm tổn thương tế bào biểu mô phế quản, là tổn thương vật chất di truyền nằm trong gen trong nhân tế bào đó chính là các phân tử DNA. Các phân tử DNA này bị đột biến dưới tác động từ môi trường bên ngoài như chất độc, khói thuốc lá. Các DNA bị đột biến này sẽ chỉ huy tế bào tăng sinh bất thường và sinh ra ung thư.
Khối u thần kinh nội tiết phát triển chậm phát sinh từ niêm mạc phế quản, chúng ảnh hưởng đến bệnh nhân từ 40 đến 60 tuổi. Một nửa số bệnh nhân không có triệu chứng và một nửa có các triệu chứng như tắc nghẽn đường thở, bao gồm khó thở, thở khò khè, ho, ho ra máu và đau ngực.
Một số dấu hiệu và triệu chứng của ung thư phế quản:
Ung thư phế quản giai đoạn đầu gần như không có triệu chứng. Người bệnh thường được phát hiện khi chụp X - quang phổi kiểm tra sức khỏe định kỳ hàng năm.
Các triệu chứng của ung thư phế quản giai đoạn tiến triển:
Ho: Là triệu chứng thường gặp nhất. Đa số bệnh nhân thường bỏ qua triệu chứng này, cho rằng ho là do hút thuốc lá. Trên những bệnh nhân bị COPD (Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính) sẽ thay đổi tính chất ho như ho có thể dài hơn, số lượng đờm có thể có nhiều hơn, đờm có mủ hay tái đi tái lại hơn so với trước đây, có thể ho ra đờm có máu.
Ho ra máu: Là một triệu chứng báo động quan trọng, đối với bệnh nhân trên 40 tuổi, có hút thuốc lá, lại ho ra máu thì nên đến thăm khám bác sĩ để được chỉ định nội soi để chẩn đoán bệnh.
Khó thở: Khi khối u đã lớn làm tắc nghẽn phế quản, làm xẹp một vùng phổi hoặc do khối u xâm lấn ra màng phổi làm tràn dịch màng phổi.
Đau ngực: Đau ngực trong ung thư phế quản ban đầu là dai dẳng, mơ hồ, không rõ vị trí, sau đó là đau ngực nhiều gây khó chịu.
Ung thư phế quản giai đoạn muộn:
Ở giai đoạn muộn các tế bào ung thư phế quản xâm lấn vào các cơ quan nằm trong trung thất (các cơ quan trong lồng ngực nằm giữa hai lá phổi). Bệnh nhân có thể chóng mặt, ù tai, nhức đầu, tím tái ở mặt và phần trên ngực nếu tĩnh mạch chủ trên bị xâm lấn làm cho máu không về tim được. Nếu động mạch chủ bị xâm lấn có thể gây vỡ động mạch chủ gây tràn máu màng phổi và tử vong.
Bệnh nhân có thể bị khàn tiếng, giọng đôi do liệt dây thanh âm nếu thần kinh quặt ngược thanh quản trái bị xâm lấn.
Bệnh nhân có thể có triệu chứng nấc cụt, khó thở do liệt cơ hoành nếu thần kinh hoành bị tổn thương,.
Bệnh nhân có thể nuốt khó, sặc, nuốt nghẹn nếu thực quản bị tổn thương,.
Ung thư phế quản di căn màng phổi: Là triệu chứng thường gặp, gây tràn dịch màng phổi lượng nhiều, lượng dịch tái lập nhanh sau khi chọc dò.
Nếu ung thư phế quản di căn thành ngực: Tạo khối u trên thành ngực, gây đau nhức dữ dội.
Nếu ung thư phế quản di căn hạch: Các hạch trên đòn, hạch nách có thể sưng to, cứng, không đau.
Ung thư phế quản di căn cơ quan xa như tuyến thượng thận, não, gan, xương, da.
Để ngăn ngừa bệnh diễn tiến nặng hơn và tránh các tình huống phải cấp cứu cần chẩn đoán và điều trị sớm nhất có thể.
Hiện nay vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính xác gây ra ung thư phế quản. Gen có thể là tác nhân chính gây ra bệnh này, những người mắc bệnh di truyền hay còn gọi là tân sản nội tiết tố loại 1 (MEN-1) có nhiều khả năng mắc bệnh này. Xạ trị vùng đầu cổ làm tăng nguy cơ ung thư biểu mô dạng nhầy bì.
https://www.msdmanuals.com/carcinom_phe_quan
Khi bị ung thư phế quản, việc chăm sóc bản thân là rất quan trọng để hỗ trợ quá trình điều trị và hồi phục. Bạn nên tuân thủ các khuyến nghị của đội ngũ chăm sóc về cách chăm sóc sau phẫu thuật hoặc điều trị. Điều này có thể bao gồm việc duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, tập thể dục nhẹ nhàng nếu có thể, và tránh các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ tái phát. Hãy tái khám định kỳ theo chỉ định của bác sĩ để theo dõi tình trạng sức khỏe và phát hiện sớm bất kỳ biến chứng hoặc dấu hiệu tái phát nào. Việc duy trì một cuộc sống lành mạnh và kiên trì trong điều trị có thể giúp tăng cường khả năng hồi phục và cải thiện chất lượng sống.
U carcinoid phổi có thể điều trị hiệu quả, đặc biệt là u carcinoid phổi điển hình, với khả năng tái phát rất thấp, chỉ dưới 4%. Tuy nhiên, việc khẳng định liệu ung thư đã được chữa khỏi hoàn toàn hay không là khó, vì vẫn có khả năng nó có thể tái phát. Ngược lại, u carcinoid phổi không điển hình khó điều trị hơn và tỷ lệ tái phát cao hơn. Khoảng 1 trong 3 người mắc loại này có thể gặp tái phát trong vòng 4 năm sau khi điều trị.
Hút thuốc là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây ung thư phế quản. Khi bạn bỏ thuốc lá, nguy cơ mắc ung thư sẽ giảm đáng kể. Ngay cả khi đã mắc bệnh, việc ngừng hút thuốc giúp cơ thể phục hồi nhanh chóng, đồng thời giảm khả năng ung thư tái phát. Việc không hút thuốc còn giúp cải thiện sức khỏe tổng thể và hỗ trợ quá trình điều trị hiệu quả hơn.
Xem thêm thông tin: Bỏ thuốc lá bao lâu thì phổi sạch? Làm sạch phổi để bảo vệ sức khỏe
Ung thư phổi và ung thư phế quản khác nhau chủ yếu về vị trí các tế bào bất thường nhân lên một cách mất kiểm soát dẫn đến hình thành một hoặc nhiều khối u ung thư. Ung thư phế quản là tổn thương ác tính phát sinh từ biểu mô niêm mạc của khí phế quản, tiểu phế quản tận, phế nang và các tuyến của phế quản. Ung thư phổi có thể phát triển từ phổi, nơi bao gồm các khí quản, phế quản gốc, cho đến các phế quản nhỏ, tiểu phế quản, và phế nang nơi có chức năng trao đổi oxy và CO2. Quá trình này có thể dẫn đến di căn ra các bộ phận khác của cơ thể.
Ung thư phế quản thường khó phát hiện ở giai đoạn sớm do các triệu chứng không rõ ràng hoặc hoàn toàn không có. Nếu có triệu chứng, chúng thường nhẹ như ho kéo dài hoặc cảm giác khó chịu vùng ngực, dễ nhầm lẫn với các bệnh lý hô hấp thông thường. Nhiều trường hợp chỉ được phát hiện tình cờ khi bệnh nhân đi kiểm tra sức khỏe định kỳ, đặc biệt qua các phương pháp chụp X-quang phổi hoặc CT scan. Thống kê cho thấy khoảng 5 - 15% bệnh nhân ung thư phổi, bao gồm ung thư phế quản, được chẩn đoán tình cờ trong quá trình kiểm tra sức khỏe mà không hề có triệu chứng lâm sàng.
Hỏi đáp (0 bình luận)